ĐÓN BA VỀ

Posted on at


"Nhưng mà thôi, dẫu sao thì mình vẫn là con... ráng làm cho tròn bổn phận mấy anh chị à!".

***

Ngôi nhà sàn gỗ màu xanh đối diện bến sông thường ngày vắng lặng, hôm nay lại có cái gì đó khang khác. Trong nhà rất đông người, tốp đứng tốp ngồi, tốp đi vô tốp đi ra. Vậy mà ít nghe tiếng nói và tuyệt nhiên chẳng có tiếng cười, hình như gương mặt ai nhìn cũng có vẻ lóng ngóng. Phía trước, một tốp hai ba người đàn ông đang tháo bộ cửa gỗ ra khỏi nhà một cách chậm rãi. Trong nhà, vài người phụ nữ đến lau dọn tỉ mỉ chiếc giường đặt ở gian giữa. Tất cả tuyệt nhiên yên tĩnh - yên tĩnh đến lạ thường. Chỉ có tiếng lạch cạnh đều đều của những nhát búa đang tách dần hai vạt cửa và tiếng xoạt xoẹt rất nhỏ phát ra từ cây chổi hầu như lúc nào cũng di chuyển trên nền nhà. Người ta nhìn nhau bằng đôi mắt ngơ ngác, thất thần, không buồn cũng không vui. Những đôi mắt mông lung lắm! Cùng đau nhưng lại không thể cùng chia sẻ, họ chỉ biết nhìn, và lặng lẽ quay đi.

don-ba-ve

Trong đám đông ấy có hai người phụ nữ tựa tựa nhau, xê xích cỡ chừng dăm bảy tuổi. Cả hai cứ bước ra đường lóng ngóng rồi quày quả trở vô. Lại bước ra dòm ngó bâng quơ như chờ cái gì đó, không thấy gì lại trở vô. Cái nhìn của họ xa xăm, một khoảng trống chừng như chưa bao giờ lấp. Người phụ nữ độ chừng ngoài bốn mươi quay sang hỏi thằng nhỏ đứng bên cạnh:

"Mấy giờ rồi Hiệp?".

"Dạ, bốn giờ rưỡi".

"Chậc! Chiều rồi sao chưa thấy về!".

Người phụ nữ trông có vẻ lớn tuổi hơn cứ cầm cây chổi lên quét quét mấy cái rồi buông xuống. Lát sau lại cầm chổi lên quét, lại buông xuống. Hình như chị chỉ muốn tìm việc gì đó làm cho khỏi phải lóng ngóng, chứ nhà đã sạch sẽ, tươm tất từ hồi nào rồi, có gì dơ để quét đâu. Trong lòng chị ngổn ngang nhiều thứ. Là tình thương, là niềm hoài vọng, là cái đạo làm người... Và có lẽ cũng có nỗi hận!

"À! Quên nữa, ai ăn cơm thì vô trong bếp bới ăn đi!", người phụ nữ trẻ hơn nói.

Người phụ nữ lớn tuổi hơn quay phắt sang, trả lời vội vã:

"Thôi! Ai ăn uống gì vô!".

Hai người phụ nữ ấy là hai chị em ruột, nhà họ hôm nay không tiệc tùng gì cả, mà họ đang chờ đợi một người. Đó là người họ đã phải chờ suốt hai mươi năm, và vừa mới hôm qua thôi, họ hay tin người ấy sắp về. Hai mươi năm, họ chưa từng bao giờ chờ đợi hay trông ngóng. Chưa từng thắc mắc người ấy ở đâu, vì sao lại không trở về. Chưa từng nhớ nghĩ đến người ấy. Có chăng cũng chỉ là những ký ức quá mờ nhạt, trống rỗng. Vậy mà giờ đây người ấy đã về.

Người ấy là ba họ.

Suốt cả đêm qua hai người phụ nữ hầu như không chợp mắt. Mới bốn giờ sáng cả hai đã thức dậy sửa soạn vài thứ linh tinh gì đó, như là chuẩn bị cho một chuyến đi xa. Mà họ có đi đâu, cũng ở nhà suốt từ sáng đến giờ đó thôi. Họ tìm lục trong ký ức của mình những hình ảnh xa xăm, cố chắp nối lại thành hình thù rõ rệt, nhưng vô ích. Tất cả ký ức ấy chừng như không còn muốn cho hai chị em lưu giữ nữa, nó đã theo thời gian, và theo má, trôi mất rồi, rất xa rồi... Người chị cứ cố tìm một việc gì đó để làm, hết nấu cơm rồi lặt rau, nhìn vào đống chén dơ liền đi xuống rửa, rửa xong nghiêng nghiêng ngó ngó một hồi không biết phải làm gì nữa, ngồi thừ một góc nhà. Người em không chuẩn bị dọn hàng ra chợ bán như mọi hôm, sai thằng con tên Hiệp hết làm cái nầy lại làm cái khác, thấy nó làm không vừa ý lại chạy đến sửa. Nhà cửa được quét dọn sạch bóng, đồ đạc xếp ngay ngắn, khó tìm thấy miếng bụi nào. Hình như trong mắt họ, để đón người ấy về là phải chuẩn bị nhiều thứ lắm.

Bỗng dưng trưa nay, một cú điện thoại báo tin người mà họ chờ không còn nữa. Trời ơi! Sao vậy? Mọi người sững sờ, không tin vào tai mình được. Họ chuẩn bị nhà cửa để đón ba mình trở về bây giờ lại trở thành chuẩn bị để... làm đám tang. Những gương mặt vô hồn, rầu rĩ cứ nhìn nhau, thoáng một cái gì đó mênh mang, chơi vơi. Cô em kêu thằng Hiệp gọi điện cho các cậu, cô báo tin cho các em mình về gấp lo đám tang ba. Trong điện thoại mọi người ngớ ra: "Trời! Ba nào?".

Thì vậy, những người con trai sau nầy làm gì biết ba họ là ai, cứ ngỡ ba mình đã biệt tích đâu đó hoặc chết ở một xó xỉnh nào rồi. Vậy mà bây giờ đùng một cái, có một đàn ông ở đâu tự dưng xuất hiện rồi bắt họ phải gọi là ba. Chuyện không thể tin được, cứ như trên trời rớt xuống!

-o0o-

Ba má họ lấy nhau ai ở xóm nầy cũng cho là "xứng đôi vừa lứa". Có ngờ đâu sống với nhau gần chục năm, có với nhau được mấy đứa con, ông chồng lại trở chứng, sinh ra vợ bé vợ mọn. Rồi ông cũng cuốn gói ra đi theo ả đàn bà ấy, bỏ lại mấy má con sống trong mái nhà lụp xụp chật vật với biết bao nhiêu điều lo toan. Ba bỏ mấy má con họ từ hồi năm nảo năm nào, cũng không ai còn nhớ, và cũng chẳng ai thèm nhớ làm gì. Nghe họ hàng nói là lúc má mới có bầu thằng Út, bởi vậy sao nầy mấy đứa em trai đâu còn nhớ mặt ba.

Từ khi ông, đi ngôi nhà năm anh chị em, hai chị gái và ba em trai sống dựa vào số tiền ít ỏi của má kiếm được. Chỉ đơn giản là miếng cơm ăn cho qua ngày, mấy bộ quần áo mặc, vậy mà coi bộ cũng khó quá chừng! Hai người chị lớn cũng tìm vài việc linh tinh để phụ má kiếm đồng vô đồng ra cho mấy đứa em. Thằng con trai kế đi học, thằng kế nữa mới ba bốn tuổi suốt ngày đi chơi với đám trẻ trong xóm, còn thằng trai út nằm một mình khóc bù lu bù loa.

Má họ có một tiệm tạp hóa lụp xụp ngoài chợ. Gọi là tiệm cho sang chứ thực ra là cái chòi bán vài món lỉnh kỉnh chẳng ra gì, nhưng ai cần mua thứ gì cũng đều được đáp ứng. Nếu món hàng khách mua trong tiệm có thì bán, còn không có thì bà đi mua ở tiệm kế bên rồi về bán cho khách. Cái kiểu tạp hóa "dã chiến" hay tạp hóa "chạy giặc" nầy coi ra cũng ngộ. Lúc nào thấy tiệm vắng khách bà chạy về nhà dòm ngó đám con mình. Hai đứa con gái lớn đứa bán bánh cam bánh còng, đứa bán sơ ri đậu phộng và thằng con trai đi học đều khỏi lo, chỉ có hai thằng nhỏ phải tới lui coi sóc nhiều. Khi thấy thằng con đi long nhong ở mé đìa, bà í ới kêu lên coi chừng té, còn thằng út thì phải ru cho nó ngủ, khi nó khóc phải dỗ cho nín... Tất tả chạy ra tiệm bán rồi tất tả chạy về nhà coi chừng mấy đứa con, kể ra cũng lắm chuyện phải lo. Nhưng mà, bà vẫn làm mà không cần dựa dẫm vào ai. Bà muốn chứng tỏ cho mọi người thấy rằng: "Không có đàn ông trong nhà, má con tôi vẫn sống được!".

Mấy chục năm trôi qua, những đứa con càng lớn cũng đồng nghĩa với người má càng già nua giữa cái cuộc sống lúc nào cũng trẻ trung, vội vã nầy. Thời gian phủ lên đôi cánh tay của bà một màu đen đúa và càng ngày càng trở nên ốm yếu, teo thắt lại như chỉ còn da với xương. Tiệm tạp hóa của bà sang lại cho người khác từ lâu lắm rồi, con cái ra làm ăn riêng, bà khỏi phải lo cho ai nữa. Mấy đứa con cũng dụng vợ gả chồng gần hết, đám cưới của họ chủ hôn không bao giờ là người đàn ông. Chỉ có bà, bà lo chu tất mọi thứ. Hình như con bà đã quên cái tiếng "ba" từ lâu lắm rồi. Mà cũng phải, mấy chục năm rồi chứ đâu phải ít, con cái trong nhà còn có người không biết mặt ba, hàng xóm dễ gì còn được mấy người nhớ về người đàn ông ấy.

Người đàn ông đó, hai mươi năm chưa một lần trở về. Hai mươi năm, gia đình năm chị em ấy chưa từng nghĩ đến "trách nhiệm" nào đó mà ba phải dành cho họ, nhưng những gia đình khác. Chưa bao giờ mơ ước rằng sẽ có một ngày ba xuất hiện, rồi cho cái bánh cục kẹo. Cũng chẳng khi nào nghĩ rằng mình cần phải có ba để cho... giống thiên hạ. Đối với họ, ba là một khái niệm xa xỉ lạ lẫm, nhưng họ cũng chẳng cần, chẳng quan tâm đến. Vậy mà, nay "ổng" đã trở về. Thật ra thì đây là một chuyện có dự tính trước. Bà vợ sau của ông và đám con đã tính toán đâu vào đấy hết rồi. Khi biết bịnh của ông khó qua khỏi, họ đã bàn tính đưa ông về với gia đình con ruột để khỏi phải gánh trách nhiệm. Nào ngờ, con ruột chưa kịp rước về thì ông đã tắt thở. Vậy là họ càng phải nhanh chóng tống khứ ông ra khỏi nhà càng nhanh càng tốt.

Hồi trưa, lúc điện thoại cho các cậu về, cậu Tư đâu có muốn rước ba mình, các dì thì lại muốn đưa tiễn ông khúc cuối cùng đó, nhưng mà...

"Thì đó, bởi người trong nhà không biết ba. Vả lại ba có cần tới mình đâu, mấy chục năm sống với một người phụ nữ khác, không chừng ông ấy đã có cả bầy con rồi...".

Cậu Tư chưa nói xong, dì Hai đã vội chen vào:

"Nhưng mà, dù sao ổng cũng là ba mình, mình là cốt nhục của ổng mà".

"Ổng có nuôi mình được ngày nào không? Mà nghĩ cũng ngộ thiệt chị Hai à, sao đám con của ổng với cái bà vợ đó không lo cho ổng mà kêu mình rước ổng về? Mấy chục năm nay ổng lo cho cái lũ đó cả đời rồi, bây giờ tới phút cuối nó lo cho ổng không được sao?".

Dì Ba từ nãy đến giờ chỉ ngồi lặng thinh, đợi cậu Tư nói xong mới lặng lẽ nhìn cậu rồi nói với vẻ trầm tư:

"Thì đành là vậy, nhưng mà... Thôi, dù gì cũng hết kiếp người. Ổng lo cho ai kệ ổng, người ta đối xử với ổng thế nào mình cũng đừng trách móc người ta. Nhưng sự thật thì ổng vẫn là ba mình. Ổng không nuôi mình nhưng cũng đã có cái công... mang tiếng 'ba' thôi thì còn phút cuối nầy mình rán làm cho trọn cái đạo hiếu. Còn mầy có cần ổng hay không đó là chuyện của mầy".

Im lặng lại tràn về. Cái nhà đã chật kín người - năm người con thêm chồng vợ của họ, rồi con cháu - vậy mà không ai nói tiếng nào, muỗi bay vo ve nghe phát sợ. Cậu Út mang cặp kiếng trắng dáng vẻ thư sinh, rít điếu thuốc, thả một vệt khói trắng bay lờ đờ trước nhà. Vệt khói dường như bay đến từ rất lâu rồi và dường như không tan, không bao giờ tan, cứ chờn vờn trong ngôi nhà. Cậu Út ngồi nhìn mọi người một lúc rồi lên tiếng:

"Em không biết mặt ba, mấy anh chị còn được ba bồng ẵm, chứ em thì... Nhưng mà dầu sao ổng cũng là ba mình. Chị Ba nói phải, sự thật vẫn là sự thật, mình vẫn mang dòng máu của ổng. Em biết ở đây không ai thương yêu gì ổng hết, bởi vì có ai có ấn tượng gì với ổng đâu. Nhưng mà thôi, ổng sống sao cũng được, chết rồi mình là con phải lo cho ổng có chỗ nơi an nghỉ. Chuyện cũ... thôi, chấp làm gì. Việc nhỏ nhoi cuối cùng nầy, mình lo cho ổng đi".

"Nói như mầy vậy..." - Cậu Tư nói chưa hết câu, mợ Tư đã khều nhẹ vô vai chồng, ý chừng không muốn chồng mình cãi nữa. (Thôi thì cứ vậy!)

Cậu Năm ngồi lặng yên không nói, ngước nhìn lên bàn thờ má. Có lẽ cậu đang nhớ về người má đáng thương của mình. Người đó dành cả cuộc đời chăm sóc cho năm chị em khôn lớn, dựng vợ gả chồng cho từng đứa, lo cho mỗi đứa có công việc đàng hoàng... Tất cả, chỉ một mình bà lo toan. Bao năm nay người đàn ông ấy sống bên gia đình mới hạnh phúc, nào có ngó ngàng, có nhớ gì đến đám con của mình. Ông ấy đâu biết là để có được gia đình sung túc hôm nay họ đã phải đánh đổi cả tuổi thơ, đánh đuổi bằng cả nụ cười của má. Ông ấy đâu biết rằng vào cái ngày má mất - chỉ mới cách đây chưa bao lâu - con cái hy vọng ông sẽ trở về dự đám tang cho trọn "nghĩa tào khang". Ấy vậy mà ông vẫn biệt tăm. Lúc đó, ông ở đâu? Những ngày cuối cùng của cuộc đời, căn bịnh hoành hành, đám con của vợ sau ông ấy không chăm sóc mà liền tống khứ về cho con ruột. Chúng muốn nhanh chóng đem cái lão già vô dụng ấy đi xa càng sớm càng tốt cho khuất mắt. Những điều đó, ông ấy có biết không?

"Nhưng mà thôi, dẫu sao thì mình vẫn là con... ráng làm cho tròn bổn phận mấy anh chị à!".

Cuối cùng thì "đa số thắng thiểu số", họ quyết định đón ba về. Cậu Năm và cậu Út nhờ một chiếc xe chuyển bệnh từ thiện của Hội Chữ thập đỏ rồi cùng đi. Dì Hai và dì Ba ở nhà lo chuyện nhà cửa. Cậu Tư vốn thuộc phần "thiểu số" không tán đồng, nên ở nhà không đi rước ba. Tuy nhiên, là người đàn ông duy nhứt trong nhà lúc nầy, cậu lo mua quan tài và các thứ cần thiết trong việc ma chay. Vậy là từ trưa đến giờ, những người trong nhà cứ thấp thỏm, đợi chờ, tay chân cứ như nhũng ra, không làm đâu vào đâu. Bàn thờ má được mọi người đốt nhang liên tục, như muốn van vái rằng hôm nay chúng con đón ba về... dù gì cũng mong má hãy tha thứ cho ba. Không ai nói ra, nhưng hình như ai cũng mang một tâm trạng chung như thế. Không biết ở phương nào đó, người má có nghe được lời của những đứa con nói hay không, nhưng biết chắc rằng bà sẽ tha thứ cho ông. Họ biết rằng má họ luôn là người cao thượng, suốt cả đời chỉ sống vì chồng vì con dẫu cho cái nghĩa vợ chồng người đàn ông ấy chưa từng trả được.

Ngoài xa kia, gió sông Tiền vẫn đánh rì rù vào bờ, dáng chiếc xe chữ thập đỏ càng gần, càng rõ hơn. Hai mươi năm chờ đợi đã quá nhiều, và ngày cuối cùng nầy họ vẫn chờ đợi. Chờ đợi, để được đón ba về...


TAGS:


About the author

160